1.
Tình huống:
Từ năm 2001, Công ty TNHH
Thương mại Dịch vụ Kỹ thuật và Phát triển Tin học PT (sau đây viết tắt là Công
ty PT) có đầu tư làm truyện tranh cho thiếu nhi,
ông Lê Phong L bắt đầu làm việc tại Công ty với vị trí
vẽ minh họa.
Khi đó giám đốc công ty
PT là bà Phan Thị Mỹ H1 có đề nghị ông L vẽ bộ truyện tranh dân gian để chuyển
thể các điển tích và nhân vật trạng ngày xưa. Ông có xây dựng khoảng 30 nhân vật
và chọn ra 4 hình tượng nhân vật là O, P, Q, R để sáng tác bộ truyện tranh E.
Ông L thực hiện các công
việc từ hình thành ý tưởng sáng tạo đến vẽ hình tượng nhân vật và sự kiến số tập
truyện phải xuất bản trong năm. Công ty PT và các đồng nghiệp chỉ hỗ trợ mua tư
liệu, lọc nét, xử lý màu, đóng góp ý kiến nhằm rút ngắn thời gian và hoàn thiện
bộ truyện hơn. Bà Phan Thị Mỹ không tham gia vào một khâu sáng tạo nào trong
sáng tác truyện mà chỉ có vai trò điều phối chung và góp ý với tư cách là nhà
quản lý. Việc tiếp thu các ý kiến đóng góp từ Bà H1 và người khác vào bộ truyện
tranh hoàn toàn do ông L quyết định. Khi truyện phát
hành, trên tất cả các trang bì tập truyện đều có ghi nhận tác giả là Lê L (là
bút danh của Ông L).
Ngày 29/03/2002, theo yêu
cầu của bà Mỹ, ông L có ký đơn để Công ty PT đăng ký quyền sở hữu đối với 4
hình thượng nhân vật O, P, Q, R. Sau đó Công ty PT được
Cục bản quyền cấp Giấy chứng nhận ghi nhận chủ sở hữu bản quyền của 4 hình tượng
nhân vật trên.
Ông L tiếp tục sáng tác
truyện E cho đến tập 78 thì dừng lại và nghỉ việc tại Công ty PT. Một thời gian
sau Ông L phát hiện Công ty PT đã tự tạo ra nhiều biến
thể khác nhau của 4 hình tượng nhân vật O, P, Q, R trên các tập truyện E từ tập
79 cho đến nay và các ấn phẩm khác như E Khoa Học, E Mỹ Thuật mà không xin phép
Ông L.
Nay Ông L khởi kiện yêu cầu:
+ Công nhận Ông L là tác
giả duy nhất của 4 hình tượng nhân vật O, P, Q, R trong bộ truyện tranh từ tập
01 đến tập 78, không công nhận bà Phan Thị Mỹ H1 là đồng tác giả trong việc
sáng tác 4 hình tượng nhân vật trên.
+ Buộc Công ty PT chấm dứt
việc tự tạo và sử dụng những biến thể khác nhau của các hình tượng 04 nhân vật
đã nêu trên ở các tập E tiếp theo tập 78 và trên các ấn bản khác nhau như E
Khoa Học, E Mỹ Thuật.
+ Buộc Công ty PT xin lỗi
công khai trên báo Pháp luật, Thanh Niên, Tuổi Trẻ Cười..với nội dung như
sau:”Tôi là Phan Thị Mỹ H1, Giám đốc Công ty PT, xin lỗi Ông L (bút danh Lê L)
cùng toàn thể độc giả E vì đã có hành vi xâm phạm hình tượng các nhân vật Trạng
Trí, Sửu Ẹo, Dần béo, Cả Mẹo do Ông L sáng tác trong bộ truyền tranh E.
+ Buộc Công ty PT thanh
toán chi phí thuê luật sư.
Ông L cho rằng lý do ông
ký tên vào đơn đăng ký bản quyền ngày 29/03/2002 gửi Cục bản quyền là làm theo
yêu cầu của Bà Phan Thị Mỹ H1 mục đích là để ghi nhận quyền sở hữu cho Công Ty
PT chứ không phải ghi nhận quyền tác giả cho Bà H1 hay ghi nhận ông chuyển quyền
tác giả đối với 4 hình tượng nhân vật trên cho Công ty PT hay bất kỳ ai khác.
Theo Ông L, Công ty PT sử
dụng 4 hình tượng nhân vật O, P, Q, R để thực hiện truyền E từ tập 79 trở đi và
các tập truyện E Khoa Học, E Mỹ Thuật là làm tác phẩm phái sinh. Tuy nhiên, việc
Công ty PT tự tạo ra các biến thể của 4 hình tượng nhân vật này trong các tập
truyền trên với những hình ảnh, dáng vẻ, tư thế khác so với hình tượng gốc mà
không được sự đồng ý của ông là xâm phạm đến sự toàn vẹn của tác phẩm và quyền
nhân thân của Ông.
Bà Phan Thị Mỹ H1 và Công
ty PT có cùng người đại diện hợp pháp là Ông Nguyễn Vân N trình bày:
Bà H1 và Công ty PT xác
nhận nội dung trình bày của Ông L về quan hệ lao động giữa Ông L và Công ty PT
là đúng. Tuy nhiên, không đồng ý với toàn bộ lời trình bày của Ông L về quá
trình sáng tác 4 hình tượng nhân vật O, P, Q, R trong tập truyện E.
Bà H1 không đồng ý với
yêu cầu của Ông L về công nhận Ông là tác giả duy nhất của hình tượng các nhân
vật trong các tập truyện từ 1 đến tập 78, bởi lẽ:
+ Tại văn bản ngày
29/03/2002 Ông L đã ký cam kết, thỏa thuận với bà H1 công nhận bà H1 là đồng
tác giả của 4 hình tượng O, P, Q, R và chuyển toàn bộ quyền sở hữu 4 hình tượng
trên cho Công ty PT. Văn bản này bản chất là giao dịch dân sự và được ông L tự
nguyện xác lập nên đã có giá trị ràng buộc thực hiện theo quy định pháp luật.
Việc ông L khởi kiện yêu cầu công nhận mình là tác giả duy nhất là vi phạm cam
kết trên.
+ Trong quá trình giải
quyết vụ án, Ông L không chứng minh được mình là người trực tiếp sáng tạo ra
tác phẩm, cụ thể là về thời gian, địa điểm, hình thức, cách thức sáng tác, dấu ấn
sáng tạo cá nhân của mình, căn cứ duy nhất được Ông L đưa ra là trên bìa ấn phẩm
E có ghi tên “Lê L”.
+ Bà H1 là người đầu tiên
có ý tưởng về các nhân vật trong E, cụ thể bà là người lấy hình mẫu, cơ sở cấu
trúc nhân vật truyện tranh Nhật Bàn và đường nét mang tính dân gian Việt Nam để
tạo nên 04 hình tượng nhân vật. Hình tượng 04 nhân vật đã được định hình rõ
ràng trong trí óc của bà H1, nhưng do không phải họa sĩ nên bà H1 đã thuê các họa
sĩ trong đó có Ông L giúp bà thể hiện các hình tượng này, quá trình này vẫn được
bà h1 đích thân chỉ đạo, phân công nhiệm vụ.
+ Việc để thông tin tác
giả là Ông Lê L lên bìa sách chỉ để phục vụ cho câu lạc bộ giao lưu với bạn độc,
nhằm mục đích kinh doanh, không hoàn toàn đúng nhưng cũng không hoàn toàn sai,
tránh đối thủ cạnh tranh bắt chước, giúp nâng vị thế của Ông L chứ không phải
thừa nhận Ông Lê L là tác giả của truyện.
Công ty PT không đồng ý với
yêu cầu của Ông L về việc buộc Công ty chấm dứt việc tạo các biến thể của hình
tượng 04 nhân vật O, P, Q, R trên các tập E tiếp theo tập 78 và trên các ẩn bản
khác như E Khoa Học, E Mỹ Thuật, bởi lẽ:
+ Qua văn bản 29/03/2002
Ông L đã thừa nhận Bà H1 là đồng tác giả và chuyển quyền sở hữu hình tượng 04
nhân vật cho Công ty PT. Đến nay chưa có quyết định nào tuyên bố văn bản này và
giấy chứng nhận bản quyền vô hiệu, nên Công ty PT có quyền sử dụng 4 hình tượng
để làm tác phẩm phái sinh.
+ Do không có hành vi xâm
phạm quyền tác giả nên Công ty PT không đồng ý với yêu cầu của Ông L về Công ty
phải xin lỗi công khai và thanh toán chi phí luật sư.
2.
Quan điểm về vấn đề này
Theo quy định tại Điều 51
Luật SHTT và điều 35, 36, 37 Nghị định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 về thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận quyền tác giả
thì Cục bản quyền tác giả là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền tác giả theo hồ sơ đăng ký quyền tác giả của người nộp.
Theo quy định tại điều 55
Luật SHTT “ổ chức, cá nhân phát hiện việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác
giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan trái với quy định của Luật này thì
có quyền yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan hủy
bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, Giấy chứng nhận đăng ký quyền
liên quan”
Do đó việc Tòa án công nhận
hoặc không công nhận hiệu lực các Giấy chứng nhận quyền tác giả mà Cục bản quyền
tác giả cấp không liên quan đến quyền nghĩa vụ của Cục bản quyền tác giả.
Đối tượng tranh chấp
trong vụ án là hình thức thể hiện của các nhân vật O,P,Q,R. Theo các Giấy chứng
nhận bản quyền tác giả đã cấp ngày 7/5/2002 hình thức thể hiện của 4 nhân vật
đang tranh chấp được Cục bản quyền tác giả cho chủ sở hữu là Công ty PT. Tuy
nhiên tại mục tác giả các văn bản nêu trên thể hiện là tập thể tác giả. Nguyên
đơn cho rằng Ông là người trực tiếp sáng tác ra hình tượng 04 nhân vật, yêu cầu
Tòa án xác định ông là tác giả duy nhất của các nhân vật O, P, Q, R. Bị đơn Bà
Phan Thị Mỹ H1 là tác giả của các tác phẩm tranh chấp do các tác phẩm này đã được
định hình rõ ràng trong trí óc của bà, ông L chỉ là người được bà thuê để vật
thể hóa các ý tưởng đó ra thế giới bên ngoài. Nguyên đơn cũng không chứng minh
được địa điểm và thời gian sáng tạo, hình thức, cách thức sáng tạo và dấu ấn cá
nhân của mình trong tác phẩm.
Việc sáng tác và cấp giấy
chứng nhận bản quyền tác giả diễn ra vào giai đoạn chưa có Luật Sở hữu trí tuệ
điều chỉnh nên cần áp dụng quy định về Bộ luật dân sự 1995 và các văn bản hướng
dẫn phần này của Bộ luật dân sự năm 1995 là phù hợp.
Hình thức thể hiện của
các nhân vật O, P, Q, R là các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, là loại hình tác phẩm
được bảo hộ theo đúng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 747 của Bộ luật Dân sự năm
1995. Theo quy định tại khoản 1 Điều 745, Điều 754 Bộ luật dân sự 1995 thì “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo toàn bộ
hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học”; “Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới
hình thức nhất định”. Điều 6 của Nghị định số 76 – CP ngày 29 tháng 11 năm
1996 của Chính phủ quy định:”Quyền tác giả
đối với tác phẩm phát sinh tại thời điểm tác phẩm sáng ttaoj được thể hiện dưới
một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt tác phẩm đã công bố hoặc chưa
công bố, đã đăng ký bảo hộ hoặc chưa đăng ký bảo hộ”. Tại phiên tòa nguyên đơn
cung cấp bản chính bản thảo của hình thức thể hiện 4 nhân vật tuy nhiên không
thể hiện vẽ vào thời điểm nào. Bị đơn cũng cung cấp các hình ảnh và cho rằng
đây là những hình ảnh phát họa đầu tiên và hình ảnh sau khi có sự góp ý chỉnh sửa
của bà H1 nhưng cũng không cung cấp được thông tin thời gian vẽ ra các hình ảnh
đó. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cũng thừa nhận nguyên
đơn là người trực tiếp vẽ ra các nhân vật O, P, Q, R và bắt đầu xuất hiện từ tập
01 bộ truyện tranh E do Công ty PT thực hiện xuất bản. Trên các ấn phẩm phát
hành đều thể hiện nguyên đơn (bút danh Lê L) là người thể hiện phần tranh minh
họa, ngoài ra một số mục khác như quá trình thực hiện bộ truyện E mà theo trình
bày của bà Phan Thị Mỹ H1 là để giao lưu với bạn đọc thì đều thể hiện họa sĩ Lê
L là tác giả.
Theo khoản 3 và khoản 5
Điều 2 Nghị định số 76 – CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một
số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự thì để được công nhận là tác
giả, người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật hoặc khoa học phải để tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm được công bố,
phổ biến; cá nhân tổ chức công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu
cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả. Xét, cá
nhân được công nhận là tác giả khi sáng tạo ra tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo
đó dưới một hình thức vật chất nhất định. Tức là nếu một người có ý tưởng sáng
tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa thể hiện ý tưởng này dưới
bất kỳ hình thức nào thì không thể yêu cầu công nhận mình là tác giả đối với ý
tưởng đó.
Như vậy nguyên đơn là người
trực tiếp thể hiện các hình tượng nhân vật dưới hình thức vật chất nhất định là
phù hợp với quy định pháp luật đã viện dẫn nêu trên. Bị đơn cho rằng những hình
tượng nhân vật này thật chất đã hình thành trong trí óc của bà mà nguyên đơn chỉ
là người thực hiện vẽ lại theo mô tả, bà đã tham gia góp ý, chỉnh sửa cho đến
khi đúng với ý tưởng của mình nên cho rằng mình là tác giả của hình thức thể hiện
của bốn nhân vật đang tranh chấp là không có cơ sở.
Người đại diện của bị đơn
cho rằng Ông L không thể hiện được dấu ấn cá nhân đối với các hình tượng nhân vật,
không diễn tả được quá trình sáng tác của mình đối với tác phẩm. Ông L không có
không gian sáng tạo dấu ấn cá nhân, phải vẽ trong sự kiểm soát, giám sát của bà
H1 nên nguyên đơn cho rằng mình là tác giả duy nhất là không phù hợp. Xét lời
trình bày của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là không có căn cứ chấp
nhận, vì theo các quy định của pháp luật đã viện dẫn như trên thì dấu ấn cá
nhân không phải là điều kiện để xác định tác giả của tác phẩm. Từ những phân
tích nêu trên, ông Lê Phong L là tác giả duy nhất của hình thức thể hiện của bốn
nhân vật O, P, Q, R là có căn cứ.
Về việc xác định có hay không việc xâm phạm sự
toàn vẹn của tác phẩm là bốn hình tượng nhân vật đang tranh chấp: Theo quy định
của Điều 1 phần V của Thông tư liên tịch số
02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/4/2008 hướng dẫn
áp dụng một số quy địnhcủa pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về
quyền sở hữu trí tuệ có quy định về áp dụng pháp luật về sử hữu trí tuệ để giải
quyết tranh chấp về quyền tác giả, quyền liên quan:”Đối với quyền tác giả, quyền liên quan được bảo hộ theo quy định của
các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trước ngày Luật sở hữu trí tuệ có hiệu
lực (01-7-2006) nếu còn thời hạn bảo hộ vào ngày 01/07/2006, thì tiếp tục được
bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Do đó, khi giải quyết loại tranh
chấp này, thì Tòa án áp dụng quy định của Luật sở hữu trí tuệ”. Vì vậy để
xem xét yêu cầu này giữa hai bên đương sự, Hội đồng, xét xử sẽ áp dụng các quy
định của Luật Sở hữu trí tuệ để giải quyết là phù hợp.
Nguyên đơn cho rằng mục
đích ông đến làm việc tại Công ty PT là để hợp tác, không phải là lao động theo
hợp đồng, các văn bản ông ký cho Công ty PT chỉ là hợp thức hóa trong quá trình
xin cấp giấy chứng nhận quyền tác giả đối với các hình tượng nhân vật. Tuy
nhiên trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ
chứng minh cho lời trình bày này. Căn cứ hợp đồng lao động mà nguyên đơn ký kết
với Công ty PT và lời trình bày của bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án, có
cơ sở xác định nguyên đơn làm việc cho Công ty PT theo hợp đồng lao động, nhiệm
vụ là vẽ tranh minh họa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 746 Bộ luật Dân Sự 1995
thì chủ sở hữu của tác phẩm là tác giả trừ trường hợp tác phẩm sáng tạo theo
nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng. Theo văn bản đề ngày 29/03/2002 thể hiện
“Chúng tôi đứng tên dưới đây gồm: 1. Lê Phong L; 2. Phan Thị Mỹ H1 được Công ty
TNHH Thương mại dịch vụ kỹ thuật và phát triển tin học PT,....giao nhiệm vụ thực
hiện các tác phẩm: bản vẽ nhân vật bé P, nhân vật O, nhân vật R, nhân vật Q để
in trên bộ truyện tranh E”. Văn bản nêu trên có chữ ký của Ông Lê Phong L. Căn
cứ điểm c khoản 1 Điều 746 Bộ luật Dân sự 1995 thì “Cơ quan tổ chức giao nhiệm
vụ cho tác giả là chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần tác phẩm do tác giả sáng tạo
theo nhiệm vụ mà cơ quan hoặc tổ chức giao”. Do đó, Công ty PT là tổ chức giao
nhiệm vụ cho ông Lê Phong L vẽ minh họa nên chủ sở hữu tác phẩm E còn như nhận
định trên ông L là tác giả hình thức thể hiện của các nhân vật O, P, Q, R do
ông Lê Phong L vẽ. Công ty PT được quyền làm tác phẩm phái sinh nhưng không được
sửa chữa, cắt xén hình thức thể hiện của các nhân vật O, P, Q, R hoặc xuyên tạc
tác phẩm này dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của
ông Lê Phong L.
Trong quá trình giải quyết
vụ án, nguyên đơn cho rằng Công ty PT đã phát hành truyện tranh E từ tập 01 đến
tập 78, sau đó nguyên đơn nghỉ việc tại Công ty PT nhưng công ty vẫn phát hành
tiếp các tập truyện Thần Đồng Đất việc từ tập 79 trở đi và các bộ truyện tranh
E Khoa Học với hình thức thể hiện đã được đăng ký tại Cục bản quyền tác giả mà
không có sự đồng ý của ông. Nguyên đơn cho rắng việc Công ty PT thuê người vẽ lại
các nhân vật nhưng có các đường nét không đúng với hình thức thể hiện trước đây
nên cho rằng đây là các biến thể. Nguyên đơn và các bị đơn đều không cung cấp được
chứng cứ để chứng minh có thỏa thuận nào khác khi Công ty PT phát hành ttieeps
theo của truyện E và các bộ truyện tranh E Mỹ Thuật, E Khoa Học. Tại các tập
truyện này này vẫn sử dụng hình ảnh, tên các nhân vật O, P, Q, R tuy nhiên
không ghi nhận phần tranh trong truyện là sử dụng tác phẩm hình tượng nhân vật
của tác giả Lê L như các tập E từ 01 đến 78. Theo khoản 8 Điều 4 Luật Sở Hữu
Trí Tuệ, “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ
khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giai, tuyển chọn”.
Các bên đương sự cho rằng việc tạo ra các tác phẩm sau khi Ông Lê L đã nghỉ việc
là làm tác phẩm phái sinh nhưng không nêu được đó là hoạt động nào trong các hoạt
động dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải hay tuyển chọn.
Hội đồng xét xử nhận thấy, theo các giấy chwungs nhận đã được Cục bản quyền tác
giả cấp cho các tác phẩm mà sau khi Ông L nghỉ việc chỉ diễn tả được một vài
góc cạnh như trước, nghiêng, sau lưn. Đây được xem hình thức thể hiện gốc của
các tác phẩm. Công ty PT là chủ sử hữu tác phẩm có quyền làm tác phẩm phái sinh
nhưng không được sửa chữa tác phẩm gốc. Ông Lê Phong l là tác giả của tác phẩm
có quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
Như vậy Có căn cứ xác định
Công ty PT đã có hành vi xâm phạm quyền
nhân thân của tác giả Lê Phong L theo quy định tại Điều 19, khoản 5 Điều 28 Luật
SHTT.
Về yêu cầu của nguyên đơn
buộc Công ty PT công khai xin lỗi nguyên đơn và độc giả của bộ truyền tranh E
do đã có hành vi xâm phạm quyền tác giả của nguyên đơn là có căn cứ phù hợp với
quy định tại Điều 202 Luật SHTT.
Về yêu cầu của nguyên đơn
buộc Công ty PT phải thanh toán chi phí luật sư là 20.000.000 được tòa án chấp
nhận một phần yêu cầu, tòa án tuyên Công ty PT phải bồi thường 15.000.000 theo
quy định tại khoản 3 Điều 205 Luật SHTT.
3.
Kết quả
- Công nhận Ông Lê L là tác giả duy nhất của hình thức
thể hiện các nhân vật O, P, Q, R trong bộ truyện tranh E từ tập 01 đến tập 78
theo các Giấy chứng nhận bản quyền tác giả đã được cấp.
- Buộc Công ty PT chấm dứt việc tự tạo ra và sử dụng
các biến thể của các nhân vật O, Q, P, R trên các tập tiếp theo từ tập 79 của
truyện tranh E cũng như trên các ẩn bản khác như E Khoa Học, E Mỹ Thuật.
- Buộc Công Ty PT phải xin lỗi ông Lê L trong 03 số tiền
tiếp trên báo với nội dung: “ Công ty TNHH Truyền thông Giáo dục và Giải Trí PT
xin lỗi ông Lê Phong L (bút danh Lê L) do đã có hành vi xâm phạm quyền tác giả
của Ông L đối với hình thức thể hiện của các nhân vật O, P, Q, R”.
- Buộc Công ty PT thanh toán cho Ông Lê Phong L chi
phí thuê luật sư là 15.000.000 đồng
4.
Lời khuyên của Interbra
*
Đối với những đơn vị, cá nhân sáng tạo ra tác phẩm
- Quyền tác giả phát sinh
từ thời điểm tạo ra tác phẩm, luôn phải cẩn thận lưu lại các thông tin để chứng
minh cho việc mình là người tạo ra tác phẩm cho dù việc tạo ra tác phẩm đó xuất
phát từ một nhiệm vụ được giao.
- Khi tiến hành làm việc,
hợp tác với bất kỳ đơn vị nào cũng cần phải thỏa thuận rõ ràng về quyền và lợi
ích của tác giả tạo ra tác phẩm để tránh trường hợp để phát sinh các vấn đề.
*
Đối với những đơn vị bỏ chi phí để thuê người về làm
- Khi tiến hành làm việc,
hợp tác với bất kỳ người nào cũng cần phải thỏa thuận rõ ràng về quyền và lợi
ích của tác giả và chủ sở hữu, để tác giả thực hiện tác phẩm nắm rõ quyền và lợi
ích của mình và phải chuyển giao và bắt buộc chuyển giao các quyền nào cho chủ
sở hữu sau khi thực hiện nhiệm vụ được giao từ chủ sở hữu.
Với 10 năm kinh nghiệm, INTERBRA cam kết mang đến dịch vụ chuyên nghiệp,
tận tâm và đảm bảo quyền lợi tối đa cho doanh nghiệp.
Hãy liên hệ với INTERBRA để bảo vệ thương hiệu của bạn.
Số điện thoại/zalo: 0938951939 Ms Ngọc; 0909 755 636 Ms Ánh
Facebook: Sở Hữu Trí Tuệ Interbra
Tiktok: Đăng ký Nhãn Hiệu – Interbra
Website: https://interbra.vn/
INTERBRA - Đơn vị dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp về sở hữu trí tuệ.
------------------------------
📢Hãy liên hệ với INTERBRA để được tư vấn miễn phí và nhanh chóng.
📢Đừng bỏ lỡ cơ hội để bảo vệ thương hiệu của bạn.
📢Hãy đăng ký nhãn hiệu ngay hôm nay!
------------------------------
CÔNG TY TNHH TRÍ TUỆ INTERBRA
🏡Số 8 Đường Số 6, KDC Cityland Park Hills, P.10, Q.Gò Vấp, TP.HCM
📧ib@interbra.vn
🌐interbra.vn
📌Fanpage: https://www.facebook.com/interbra.vn/
#interbra #nhanhieu #tracuunhanhieu #banquyentacgia